Pages

bảo vệ lá gan


Menu

7/10/15

ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B

Trong gần một thập kỷ qua, các nhà khoa học đã đạt được rất nhiều thành tựu trong chẩn đoán và nhất là trong lĩnh vực điều trị bệnh viêm gan siêu vi. Càng ngày càng có nhiều thuốc mới hơn với những phương thức điều trị hiệu quả hơn được đưa vào thử nghiệm. Điều này làm cho căn bệnh mà trước kia được xem gần như bó tay, nay đã tiến lên một bước dài khá quan trọng. Những quan niệm cũ cho rằng không có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh nay đã trở nên lỗi thời.
Các thuốc điều trị hiện nay vẫn chưa thật là hoàn hảo ví dụ như thời gian điều trị kéo dài, giá thành điều trị lại rất đắt và không phải ai cũng đạt hiệu quả khi sử dụng. Mặc dù vậy, do bệnh viêm gan có thể diễn tiến ngày càng nặng hơn và dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm cho tính mạng, cho nên khi có chỉ định thì việc quyết định điều trị sớm, sử dụng thuốc đúng cách và tuân thủ chặt chẽ lịch tái khám định kỳ là những vấn đề hết sức quan trọng khi điều trị bệnh viêm gan siêu vi.
Trong chương này, chúng tôi sẽ cung cấp những chi tiết chính yếu về cách điều trị bệnh viêm gan siêu vi B. Thông tin sẽ bao gồm các loại thuốc điều trị hiện có trên thị trường, khi nào thì có chỉ định dùng thuốc, bệnh nhân nào sẽ được hiệu quả cao nhất khi dùng thuốc và nếu có phản ứng phụ do thuốc gây ra thì làm cách nào để giải quyết chúng tốt nhất.
I. MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ
Mục tiêu của việc điều trị là làm thế nào để ngăn chặn không cho siêu vi sinh sản, giữ cho tế bào gan không tiếp tục bị hư hại và làm giảm bớt khả năng lây nhiễm. Việc điều trị khi có hiệu quả có thể ngăn ngừa được diễn tiến đến xơ gan và ung thư gan.
Hiện nay, những loại thuốc sau đây: Peg- interferon, lamivudine, Adefovir, Telbivudine, Entercavir và Tenofovir đã được Hiệp Hội Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và nhiều nước khác trên thế giới chính thức chấp thuận và công nhận là có hiệu quả trong điều trị viêm gan siêu vi B. Tuy nhiên do những thuốc này đòi hỏi phải có một số tiêu chuẩn trị liệu, cho nên không phải bất cứ bệnh nhân bị nhiễm siêu vi B nào cũng đều đạt kết quả tốt từ việc dùng hai loại thuốc nói trên. Vì vậy, việc chọn lựa thuốc và theo dõi điều trị phải cần đến ý kiến của bác sĩ chuyên khóa.
Việc điều trị dùng thuốc tùy thuộc vào yếu tố sau:
1. Bệnh nhân phải là người bị viêm gan siêu vi B mãn tính nghĩa là đã mang HBsAg từ 6 tháng trở lên.
2. Gan phải có bằng chứng là đang bị hư hoại. Các bác sĩ thường dựa vào nồng độ men gan ALT tăng, thường là tăng cao gấp đôi mức bình thường.
3. Cần có bằng chứng là siêu vi đang sinh sản trong cơ thể bệnh nhân. Các bác sĩ thường dực vào xét nghiệm HBeAg hoặc HBV-DNA dương tính. Lượng siêu vi càng cao thì càng khó chữa nếu dùng interferon.
4. Tuổi tác và tình trạng  sức khỏe tổng quát của bệnh nhân.
II. CÁC LOẠI THUỐC ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B
A. Peg-Interferon
1. Peg-Interferon là thuốc gì?
Peg-Interferon là một loại thuốc đã được Hiệp Hội Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ cũng như nhiều nước khác trên thế giới công nhận là thuốc dùng để điều trị viêm gan siêu vi B. Đó là một loại interferon tác dụng dài
2. Thuốc Peg-interferon có tác dụng như thế nào?
Thật ra interferon là một chất kháng siêu vi do một loại tế bào bạch cầu gọi là bạch cầu đơn nhân trong máu tiết ra khi cơ thể bị siêu vi tấn công. Đôi khi cơ thể chúng ta không có khả năng tạo ra đủ lượng interferon để chiến thắng trong những cuộc tấn công này. Vì vậy khi cho thêm thuốc Peg-interferon vào là giúp cơ thể có nhiều cơ hội để giải quyết bệnh tật. Thuốc chống lại siêu vi bằng cách ngăn chặn không cho siêu vi tấn công vào tế bào gan còn mạnh khỏe . Ngoài ra Peg-interferon còn trợ giúp cho hệ thống miễn dịch chống lại siêu vi và chống lại cả những tế bào gan đã bị nhiễm siêu vi. Thuốc cũng được ghi nhận là có tác dụng chống lại quá trình tạo ra mô xơ ở gan.


3. Hiệu quả của thuốc Peg-interferon ra sao?
Peg-Interferon có thể giúp loại trừ hoàn toàn siêu vi ra khỏi cơ thể ở một số bệnh nhân. Còn đối với một số bệnh nhân khác thì Peg-interferon làm cho bệnh chậm phát triển bằng cách làm giảm lượng siêu vi và giảm sự hư hại ở gan. Nên nhớ rằng thời điểm điều trị có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả điều trị. Không phải tất cả bệnh nhân đều có lợi ích từ Peg-interferon. Nếu siêu vi B đã gây hư hại gan trầm trọng và gan đã bị xơ nhiều thì việc dùng Peg-interferon sẽ ít có hiệu quả và đồng thời tác dụng phụ của thuốc có thể làm cho bệnh nhân nặng thêm.
Để điều trị siêu vi B, người ta tiêm dưới da thuốc Peg-interferon với liều 180mcg, 1 lần mỗi tuần. thời gian điều trị là 12 tháng. Mặc dù thuốc có tác dụng tốt nhưng vẫn chưa được hoàn hào cho lắm.Thứ nhất, thuốc phải dùng bằng đường tiêm chích chứ không phải thuốc viên hay thuốc nước để uống. Thứ 2, chỉ có khoảng 30% – 40% bệnh nhân là có hiệu quả: gan bớt viêm và siêu vi không còn hoạt động và chỉ có khoảng 10% bệnh nhân là có thể mất hẳn siêu vi B. Một bất lợi nữa là thuốc này có nhiều tác dụng phụ và rất đắt tiền.
Cùng với đà phát triển của y học, trong vòng một thập niên qua các nhà khoa học đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng trong việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi B mãn tính. Càng ngày người ta càng hiểu rõ hơn về cấu trúc của siêu vi nên họ đã và đang tìm ra nhiều loại thuốc mới đánh vào những điểm yếu khác nhau của siêu vi để tiêu diệt chúng. Nhiều trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới đã nỗ lực tìm kiếm những loại thuốc lý tưởng hơn chẳng hạn như thuốc được dùng bằng đường uống, rẻ tiền hơn và ít gây ra các tai biến phụ.
B. Lamivudine, Adefovir, Telbivudine, Entercavir, Tenofovir
Đây là nhóm thuốc chống siêu vi B dạng uống. Hiện nay những thuốc này đã có mặt trên thị trường Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới. Qua nghiên cứu trên hàng ngàn bệnh nhân bị viêm gan siêu vi B mãn, những thuốc này chứng tỏ có tác dụng nhanh và mạnh trong việc chặn đứng sự sinh sản và phát triển của siêu vi B trong máu. Thuốc còn giúp cho gan bớt bị hư hại, vì vậy làm giảm bớt nguy cơ xơ gan và ung thư gan do siêu vi B gây ra. Khả năng mà thuốc có thể loại trừ hoàn toàn siêu vi B ra khỏi cơ thể còn đang được nghiên cứu thêm. Các thuốc này không có tác dụng phụ đáng kể nhưng phải uống trong một thời gian dài (thường là từ một năm trở lên) mới có thể đạt được hiệu quả điều trị. Thuốc còn có ưu điểm là chỉ cần uống 1 viên duy nhất mỗi ngày. Do lamivudine, Adefovir và Telbivudine có tỷ lệ kháng thuốc cao nên hiện nay khuyến cáo của các Hiệp Hội Gan mật đều đồng ý ưu tiên chọn Tenofovir và Entercavir để điều trị viêm gan B. 
Tenofovir (Getino-B)
Mặc dù những thuốc này đã được công nhận là thuốc chống siêu vi nhưng hiệu quả điều trị của chúng cũng chưa thật là lý tưởng. Trong tương lai, dự đoán của các nhà nghiên cứu về chiến lược điều trị viêm gan siêu vi B mãn tính là sẽ phối hợp các loại thuốc với nhau để có thể điều trị khỏi căn bệnh này.
III. NHỮNG PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ KHÁC
Mặc dù y học ngày nay có nhiều tiến bộ trong việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi nhưng vẫn còn nhiều bệnh nhân không đáp ứng tốt với các thuốc điều trị siêu vi B và C như đang kể trên. Vì vậy, các nhà y học vẫn còn đang nỗ lực trong việc tìm kiếm những phương thức điều trị mới. Một vài loại thuốc sau đây còn đang nằm trong tầm nghiên cứu:
A. Những loại thuốc hỗ trợ hệ thống miễn dịch của cơ thể:
Các thuốc này giúp cải thiện sức đề kháng của cơ thể chống lại siêu vi như thuốc Thymosine alpha , Vaccin trị liệu... 
B. Các loại thảo dược dùng trong viêm gan siêu vi mãn tính:
Nhiều bệnh nhân thường muốn điều trị bằng những loại thảo dược, châm cứu hoặc ăn những chế độ đặc biệt như Oshawa... Nước ta vốn có nền y học cổ truyền lâu đời, cho nên việc sử  dụng thuốc Nam hay thuốc Bắc để điều trị viêm gan cũng là điều hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta cần thận trọng đặc biệt là đối với những loại cây cỏ hoặc những bài thuốc gia truyền được truyền khẩu trong dân gian bởi vì đa số các loại thuốc này không được nghiên cứu đầy đủ. Hiện nay chưa có nghiên cứu rộng rãi qui mô nào cho thấy thuốc Bắc hoặc thuốc Nam chữa khỏi bệnh viêm gan siêu vi mà chỉ chứng tỏ các thuốc này có thể làm giảm men gan và cải thiện một số triệu chứng cho bệnh nhân. Trong bài viết này chúng tôi xin nêu lên một số thuốc được điều chế từ cây cỏ được dùng rộng rãi trong điều trị viêm gan hiện nay:
 - Silymarin (cây kế): chất này không có hiệu quả trong việc tiêu diệt siêu vi nhưng nhiều người dùng thuốc này thấy có hiệu quả trong điều trị triệu chứng do bệnh gây ra. Tác dụng này có lẽ do silymarine cải thiện một phần chức năng gan.
 - Rễ Cam thảo (Licorice root): có chứa chất Glycyrrhizine giúp làm giảm men gan
 - Cây chó đẻ răng cưa (Phylantus amarus) được dùng rộng rãi ở Ấn Độ để điều trị viêm gan siêu vi B mãn
 - Cây Bồ Công Anh Trung Quốc (dandelion): người ta thường dùng lá cây này đem hấp hoặc ăn sống. Có thể uống dưới dạng trà. Thuốc cũng giúp bảo vệ một phần chức năng gan.
 - Tỏi có hai chất hóa học là germanium và selenium vẫn được xem là một chất thiên nhiên có khả năng tẩy độc, khử trùng. Hiện chưa được chứng minh có tác dụng tiêu diệt siêu vi. Hơn nữa trong tỏi có rất nhiều Sulfur, nên nếu ăn quá nhiều tỏi có thể bị ngộ độc: đau bụng, tiêu chảy, ngứa da...
 - Cây Bạch quả hay gọi là cây lá quạt (Ginko Biloba).
Ngoài những thuốc kể trên, người ta còn tìm thấy nhiều loại thuốc cây cỏ, củ hạt dưới nhiều tên khác nhau. Từ sâm cao ly, cao hổ cốt, mật gấu, nấm Linh Chi, bông Artichaut, nấm Shitake đến Huang Qi. Có lẽ tất cả những loại thức ăn hay cây cỏ thiên nhiên là điều giúp bồi bổ cơ thể, giải độc tố hoặc tăng cường hoạt động của lục phủ ngũ tạng...
Tuy nhiên, những nghiên cứu về hiệu quả thực sự của những thức ăn hoặc những loại dược thảo nói trên trong điều trị viêm gan hãy còn rất đơn sơ và chưa đầy đủ cho nên không có tính thuyết phục về mặt khoa học. Chúng tôi đã tham khảo một số tài liệu viết về hàng chục những bài thuốc gia truyền. Liều lượng và thành phần của những bài thuốc này rất khác nhau tùy vào người pha chế, mỗi người một kiểu, không có bài thuốc nào giống với bài thuốc nào, và ai cũng nói rằng bài thuốc của mình là rất hiệu nghiệm. Cho nên không có cách nào để biết thuốc nào là thật sự hiệu nghiệm hay thật sự tốt hơn những thuốc khác. Trong khi đó thuốc tây trước khi được bày bán trên thị trường thì phải thông qua nhiều thử nghiệm công phu và phức tạp ví dụ như ở Mỹ, các thuốc muốn được sử dụng để điều trị điều phải được thông qua Hiệp Hội Thuốc và Thực Phẩm Hoa Kỳ (viết tắc là FDA). Một lần nữa, nếu dùng cỏ cây để chữa bệnh, chúng phải được xem như một loại thuốc với tất cả tác dụng điều trị với tác dụng phụ và cần có những nghiên cứu qui mô hơn, đầy đủ hơn và phải được kiểm soát chặt chẽ hơn để tránh lãng phí tiền bạc đồng thời đem lại hiệu quả và an toàn cho người sử dụng.

Không có nhận xét nào: